Print
International Vietnamese studies
Hits: 1126

Nguyễn Quang Ngọc

Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, ĐHQG Hà Nội

 Việt Nam học (Vietnamology) hay Nghiên cứu Việt Nam (Vietnamese Studies) cũng như Đông phương học (Orientalism) hay Nghiên cứu Đông phương (Oriental Studies) với tư cách là các ngành khoa học thực sự chỉ được hình thành trong quá trình ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản ở phương Tây, trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản phương Tây đang tìm cách mở rộng bành trướng và chiếm đoạt các nước phương Đông.

Nói một cách chính xác, nền Đông phương học của phương Tây bắt đầu hình thành và phát triển tính từ các thế kỷ XVI - XVII gắn liền với nhu cầu truyền giáo và đẩy mạnh các hoạt động thương mại trong thời đại “thương mại Biển Đông”. Việt Nam học của phương Tây, vì thế cũng manh nha từ lúc này và bước sang thế kỷ XVII đã xuất hiện nhiều tác giả và tác phẩm đáng được lưu ý như Alexandre de Rhodes với Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài (1621-1648), Hành trình và truyền giáo (1653), Cristophoro Borri với Xứ Đàng Trong năm 1621, Jean Baptiste Tavernier với Tập du ký mới và kỳ thú về vương quốc Đàng Ngoài (đầu thế kỷ XVII), William Dampier với Một chuyến du hành sang Đàng Ngoài năm 1688, Samuel Baron với Mô tả vương quốc Đàng Ngoài... Tuy nhiên phải đến cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, cùng với quá trình xâm lược và thống trị của Thực dân Pháp thì Việt Nam học của phương Tây (mà thực chất và chủ yếu là Việt Nam học của Pháp) mới thực sự trở thành một ngành học với các học giả nổi tiếng như Henry Maspéro, Léonard Aurousseau, Paul Pelliot, Léopold Cadière, Emile Gaspardonne, André Georges Haudricourt, Madeleine Colani, Pierre Gourou... Năm 1900, Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp thành lập có trụ sở và thư viện chính đặt tại Hà Nội đã trở thành trung tâm quan trọng nhất tập hợp các nhà Việt Nam học Pháp và phương Tây.

 Điều có thể dễ dàng nhận thấy là hầu hết các nhà Việt Nam học của Pháp và phương Tây đều đã từng là các chuyên gia nghiên cứu về Trung Quốc hay Ấn Độ rồi mới chuyển sang nghiên cứu Việt Nam, nên họ thường đặt Việt Nam trong mối quan hệ đối sánh với Trung Hoa hay Ấn Độ và quan trọng hơn là họ chưa thoát ra khỏi quan niệm lấy châu Âu làm trung tâm. Việt Nam học thời kỳ Pháp thuộc được phát triển trong sự phát triển chung của nền Đông phương học phương Tây, chịu ảnh hưởng sâu sắc của hai nền học thuật lớn là Trung Quốc học và Ấn Độ học, tuy có đóng góp vào việc nâng cao nhận thức về đất nước, con người Việt Nam, nhưng thực chất nó chính là công cụ của Thực dân Pháp cho việc hoạch định các chính sách đô hộ và khai thác thuộc địa.

Đã từ lâu trong lịch sử Việt Nam từng xuất hiện những nhà bác học lỗi lạc như Lê Văn Hưu (thế kỷ XIII), Nguyễn Trãi (đầu thế kỷ XV), Ngô Sĩ Liên (cuối thế kỷ XV), Lê Quý Đôn (cuối thế kỷ XVIII), Phan Huy Chú (đầu thế kỷ XIX)… với những tác phẩm bất hủ về đất nước, con người Việt Nam. Hoàn toàn có thể tôn phong các vị là các Tổ sư có công đắp móng, xây nền cho Việt Nam học Việt Nam. Đến đầu thế kỷ XX, trên cơ sở nền học thuật truyền thống, nhiều trí thức Việt Nam tiếp thu được tri thức và phương pháp khoa học tiên tiến từ phương Tây đã nâng tầm các công trình khoa học của mình. Rồi ngay sau đó, hầu hết các nhà trí thức đó bằng nhiều con đường khác nhau đã đến với cách mạng, đến với phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, và trở thành những chuyên gia đầu ngành của nền khoa học xã hội của nước Việt Nam mới. Họ chính là những người khai sáng ra nền Việt Nam học Việt Nam hiện đại.

 Việt Nam học lúc đầu được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các chuyên ngành khoa học (chủ yếu là khoa học xã hội và nhân văn) nghiên cứu về đất nước, con người Việt Nam như Lịch sử Việt Nam, Văn hoá Việt Nam, Văn học Việt Nam, Nghệ thuật Việt Nam, Ngôn ngữ Việt Nam, Kinh tế Việt Nam, Luật pháp Việt Nam, Dân tộc Việt Nam, Địa lý Việt Nam, Môi trường Việt Nam... Trên tinh thần ấy có thể lấy ngày 10 tháng 10 năm 1945 khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 45 thiết lập Ban Đại học Văn khoa tại Hà Nội (tiền thân của trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội hiện nay) làm mốc đánh dấu sự xuất hiện của Việt Nam học Việt Nam hiện đại. Năm 1953 với sự ra đời Ban Văn Sử Địa và tiếp đó là sự thành lập các Viện nghiên cứu, các khoa khoa học xã hội thuộc các trường Đại học Tổng hợp, Đại học Sư phạm và từ năm 1995 đến nay là các trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đánh dấu các bước phát triển mới của Việt Nam học Việt Nam theo hướng chuyên ngành.

 Phải khẳng định trong thời kỳ đầu mới xây dựng, Việt Nam học không thể không dựa vào các chuyên ngành nghiên cứu về Việt Nam có trước làm cơ sở nền tảng cho quá trình hình thành và phát triển của mình. Sự trưởng thành của mỗi một ngành học cụ thể nghiên cứu về Việt Nam ở cả trong nước và ngoài nước đều có thể xem là một cơ hội cho sự phát triển của Việt Nam học. Việt Nam học ở đâu thì cũng là nghiên cứu về đất nước, con người Việt Nam. Tuy nhiên Việt Nam học Việt Nam hiện đại khác căn bản so với Việt Nam học thời kỳ đầu mới hình thành ở phương Tây là ở chỗ nó nghiên cứu Việt Nam với mục đích và yêu cầu tự thân. Các nhà Việt Nam học của Việt Nam nghiên cứu mình là để tự hiểu mình, để tìm ra cái mạnh, cái yếu của mình nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng và phát triển của chính đất nước và con người Việt Nam.

 

Điều có thể dễ dàng nhận thấy là khoa học càng đi vào chuyên sâu thì càng bộc lộ những khó khăn và hạn chế của nó trong việc nhìn nhận và đánh giá sự vật, hiện tượng với tư cách là một hệ thống tổng thể. Yêu cầu phát triển của khoa học là quá trình chuyên môn hoá, chuyên ngành hoá phải đồng thời với quá trình mở rộng liên kết, thâm nhập vào nhau, hoà quyện lẫn nhau giữa các chuyên ngành khoa học. Phương pháp tiếp cận liên ngành (Inter-disciplinary) nẩy sinh trong bối cảnh như thế và càng ngày càng trở thành xu thế quan trọng trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Liên ngành cũng có các mức độ rộng hẹp khác nhau và trình độ nghiên cứu liên ngành tuỳ thuộc vào khả năng sử dụng đồng thời, tổng thể và hiệu quả của nhiều phương pháp đặc thù cho một đối tượng nghiên cứu và đem đến một nhận thức khoa học chung.

 Cùng với sự phát triển của phương pháp nghiên cứu liên ngành là phương pháp khu vực học (Area Studies). Khu vực học lấy không gian văn hoá - xã hội bao gồm các lĩnh vực hoạt động của con người và quan hệ tương tác giữa con người và điều kiện tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu. Mục đích của khu vực học là đạt tới những nhận thức tổng hợp về một không gian, tìm ra những đặc điểm của tự nhiên và của đời sống con người trong không gian đó.

 Việt Nam học nói như học giả Trần Bạch Đằng trong Hội thảo khoa học Quốc tế về Việt Nam học lần thứ nhất (năm 1998) là một ngành khoa học “nghiên cứu một Việt Nam trong tính tổng thể của nó”, một ngành khoa học “nghiên cứu về một vùng đất, về con người ở vùng đất ấy với tất cả mối quan hệ với thiên nhiên, với lịch sử và xã hội về mọi mặt, làm nổi rõ những đặc điểm, đặc thù của Việt Nam” [1]. Một ngành khoa học như thế sẽ khó có thể phát triển, thực hiện được đúng mục tiêu và chức năng của nó nếu như vẫn cứ giữ nguyên các phương pháp tiếp cận chuyên ngành truyền thống và không chủ động chuyển dần sang hướng tiếp cận liên ngành và khu vực học. Như thế có thể hình dung Việt Nam học Việt Nam bắt đầu được hình thành từ các khoa học chuyên ngành về Việt Nam, trưởng thành trong môi trường nghiên cứu chuyên ngành, rồi từ thành tựu của các khoa học chuyên ngành hay trên bệ đỡ của các khoa học chuyên ngành mà dần dần hướng tới liên ngành và khu vực học. Nói như thế, cũng cần phải loại trừ các khuynh hướng cực đoan hoặc coi Việt Nam học trùm lên các khoa học hay coi tất cả các chuyên ngành nghiên cứu, tất cả những đề tài, dự án có liên quan đến Việt Nam đều là Việt Nam học. Đã đến lúc chúng ta phải xây dựng Việt Nam học trở thành một ngành khoa học đích thực trong phạm vi của học thuật, có đối tượng và phương pháp nghiên cứu cụ thể, rõ ràng.

 Nắm bắt được xu thế phát triển này, ngày 11 tháng 11 năm 1988, Hiệu trưởng trường Đại học Tổng hợp Hà Nội đã quyết định thành lập Trung tâm Phối hợp nghiên cứu Việt Nam và cử GS Phan Huy Lê làm Giám đốc, đứng ra xây dựng ngành Việt Nam học theo hướng nghiên cứu liên ngành. Ngày 17 tháng 5 năm 1989, chỉ sau một thời gian ngắn hoạt động, Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp trên cơ sở Trung tâm Phối hợp nghiên cứu Việt Nam đã quyết định nâng cấp thành Trung tâm Hợp tác nghiên cứu Việt Nam trực thuộc trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1995, trong xu thế phát triển mới của Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Hợp tác Nghiên cứu Việt Nam được đổi thành Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và Giao lưu văn hoá có nhiệm vụ triển khai các chương trình nghiên cứu liên ngành và mở rộng hợp tác quốc tế. Dưới sự chỉ đạo và tổ chức của GS Phan Huy Lê, Trung tâm đã hoàn thành được nhiều đề tài khoa học cấp Nhà nước, nhiều chương trình khoa học và đào tạo liên ngành, đặt quan hệ giao lưu và hợp tác với hầu hết các tổ chức nghiên cứu Việt Nam tại các trường đại học trên thế giới. Hàng năm Trung tâm tiếp nhận hàng trăm thực tập sinh, nghiên cứu sinh và nhà khoa học nước ngoài đến học tập nghiên cứu và trao đổi khoa học, chuẩn bị luận án Thạc sĩ hay Tiến sĩ, trong đó hàng chục người đã bảo vệ thành công luận án Thạc sĩ và 8 người đã bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ. Qua quan hệ giao lưu, hợp tác, Trung tâm đã giới thiệu kết quả nghiên cứu của giới khoa học Việt Nam ra nước ngoài. Trên cơ sở đó, Trung tâm đã đề xuất và đóng vai trò chủ đạo trong việc tổ chức Hội thảo Quốc tế về Việt Nam học lần thứ nhất vào các ngày 15, 16, 17 tháng 7 năm 1998 tại Hà Nội.

 Cuộc Hội thảo Quốc tế về Việt Nam học lần thứ nhất đã tập hợp được 300 nhà khoa học quốc tế của 26 nước và 400 nhà khoa học Việt Nam đến từ 18 tỉnh, thành phố, trình bày 437 báo cáo (có 176 của người nước ngoài) trong 15 tiểu ban. Đây “thực sự là một cuộc hội tụ quốc tế quy mô lớn nhất của đại gia đình các nhà Việt Nam học toàn thế giới, giữa cá nhà khoa học Việt Nam và nước ngoài cùng nghiên cứu về Việt Nam” [1]. Từ khi Việt Nam học được hình thành đã có nhiều các cuộc hội thảo mang tính quốc gia hay khu vực như Hội thảo Euro - Viet ở châu Âu; hội thảo hàng năm của Hội Nhật Bản nghiên cứu Việt Nam ở Nhật Bản; hội thảo hàng năm của Hội nghiên cứu Á châu hay Hội thảo về Việt Nam của Trung tâm Việt Nam của Đại học Công nghệ Texas ở Hoa Kỳ..., nhưng chưa có cuộc Hội thảo nào đạt đến quy mô toàn thế giới và đánh dấu bước phát triển nhẩy vọt của Việt Nam học như cuộc Hội thảo này. Đặc biệt trong cuộc Hội thảo, lần đầu tiên các chuyên gia Việt Nam học không chỉ chia sẻ cho nhau quan niệm học thuật, phương pháp tiếp cận, mà xích lại gần nhau hơn trong mục tiêu nghiên cứu, thái độ hữu nghị, hợp tác. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét hết sức xác đáng rằng: “Đã từng có thời các công trình nghiên cứu Việt Nam có thể nhằm vào những mục đích từ bên ngoài (cai trị, xâm lược, truyền giáo, thăm dò thị trường...), nhưng giờ đây, chúng ta tin tưởng rằng những thành tựu nghiên cứu của giới Việt Nam học quốc tế ngày càng hướng vào mục tiêu tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, tăng cường sự hữu nghị, hợp tác và cùng nhau phát triển. Và chính cuộc hội thảo hôm nay là một biểu tượng của sự hợp tác giữa các giới nghiên cứu Việt Nam và các học giả quốc tế” [1]. Cuộc Hội thảo chuẩn bị cơ sở cho sự hình thành một Hội đồng Quốc tế về Việt Nam học và các cuộc Hội thảo quốc tế định kỳ về Việt Nam học, mở ra một bước phát triển mới của Việt Nam học thế giới với vai trò trung tâm và chủ động của Việt Nam.

 Thật ra thời kỳ từ cuối những năm 1980, đầu những năm 1990, ngoài Trung tâm Hợp tác Nghiên cứu Việt Nam của GS Phan Huy Lê, cũng còn một số Bộ môn, Trung tâm, Khoa của các trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh được mở ra và bước đầu cũng đã quan tâm đến Lịch sử, Văn hoá Việt Nam theo hướng liên ngành, nhưng nhiệm vụ chủ yếu của của các Bộ môn, Khoa và Trung tâm này vẫn là giảng dạy Tiếng Việt cho người nước ngoài.

 Sau Hội thảo Quốc tế về Việt Nam học lần thứ nhất, nghiên cứu liên ngành và khu vực học ở Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và Giao lưu văn hoá đã bắt đầu trở thành phương hướng hoạt động chính. Nhiều Bộ môn, Khoa và Trung tâm dạy tiếng Việt trước đây cũng bắt đầu tuyên bố sứ mệnh của mình là nghiên cứu và đào tạo cử nhân Việt Nam học như Bộ môn Việt Nam học thuộc khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trung tâm Đông Nam Á học của trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Tiếng Việt và Văn hoá Việt Nam cho người nước ngoài trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội, Bộ môn Việt Nam học của trường Đại học Đà Lạt (Lâm Đồng).

 Bộ Giáo dục và Đào tạo trước nhu cầu phát triển của Việt Nam học cả về chiều rộng lẫn chiều sâu đã tổ chức soạn thảo và ban hành Khung chương trình đào tạo Cử nhân Việt Nam học “cung cấp những kiến thức cơ bản, hệ thống, hiện đại và thiết thực về Việt Nam học và Tiếng Việt” cho cả sinh viên nước ngoài và sinh viên Việt Nam. Trong Khung chương trình này, bên cạnh các môn học quen thuộc như Các dân tộc ở Việt Nam; Cơ sở văn hoá Việt Nam; Tiến trình lịch sử Việt Nam; Thể chế chính trị Việt Nam; Địa lý Việt Nam; Văn học Việt Nam, Tiếng Việt... còn có các môn học mới về phương pháp liên ngành và khu vực học [2].

 Việt Nam học ở Việt Nam từ sau Hội thảo Quốc tế lần thứ nhất đã dần dần đi đúng vào quỹ đạo của sự phát triển, từng bước đáp ứng nhu cầu của công cuộc đổi mới, trở thành ngành khoa học có nhiều ưu thế phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Để đáp ứng nhu cầu phát triển mới này của Việt Nam học, ngày 19 tháng 3 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định thành lập Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển